Chào mừng bạn đến với trang web Tin Lành Hà Nội!
Những người chống đối niềm tin Cơ đốc thường đưa ra lập luận cho rằng các dữ kiện khoa học trong ngành thiên văn học, địa chất học, và sinh vật học đi ngược với những điều ghi chép lại trong Thánh kinh. Ngay cả trong cộng đồng Cơ đốc nhân cũng có người tin rằng khoa học và Kinh thánh không thể dung hòa nhau được...nhưng hãy nghiên cứu kỹ để có cái nhìn đúng đắn về Kinh Thánh.
KHOA HỌC VÀ KINH THÁNH HÀI HÒA
Kinh Thánh và khoa học |
Một trường hợp khác là các
loài cá và chim được dựng nên trong ngày thứ năm, trước khi các loài động vật
trên đất xuất hiện (ngày thứ sáu); trong khi đó, di tích hóa thạch cho biết
động vật biển có sau động vật đầu tiên trên đất liền. Điểm chống đối nhiều nhất
là thời gian dựng nên vũ trụ và muôn loài theo Kinh thánh chỉ có bảy ngày,
trong khi đó theo khoa học, các sinh vật sống khởi xuất hiện cách đây cả hàng
triệu năm, tiến hóa từ đơn bào cho đến con người ngày nay. Như vậy Kinh thánh
và khoa học thật sự có mâu thuẫn nhau không? Nếu như Kinh thánh là lời hằng
sống của Thượng đế mặc khải cho con người, thì tại sao lại có những mâu thuẫn
như kể trên?
Điều đầu tiên cần lưu ý là, mặc dù khoa học là một bộ môn thực
nghiệm khá chính xác, được kiểm chứng và thử nghiệm nhiều lần theo thời gian,
nhưng không phải là một bộ môn bất di bất dịch. Thực tế, có nhiều lý thuyết
khoa học được coi là chân lý trong một thời gian dài, nhưng sau khi các dữ kiện
khoa học được thu thập đầy đủ hơn, các lý thuyết này có thể trở nên lỗi thời,
thay vào đó bằng những lý thuyết mới phù hợp và chính xác hơn với những khám
phá mới. Do đó phải hết sức thận trọng khi so sánh chân lý của Thánh kinh với
sự hiểu biết của nền khoa học đương thời, bởi vì một khi lý thuyết khoa học bị
lỗi thời, giá trị của Thánh kinh cũng sẽ bị suy giảm.
Điều kế tiếp đó là sự hiểu biết chân lý và ứng dụng của Thánh
kinh tùy thuộc vào người đọc, do Thánh Linh của Đức Chúa Trời soi dẫn. Tuy
nhiên để hiểu chính xác những khái niệm trong Thánh kinh có liên quan đến khoa
học, chẳng hạn như trong Sáng thế ký đoạn một, người đọc cần phải trở về với
nguyên bản, tức bản gốc bằng tiếng Hebrew (Hy bá lai). Có những câu hoặc chữ
trong Kinh thánh sau khi được dịch ra một thứ tiếng khác, đã mất đi ý nghĩa
nguyên thủy. Cuối cùng, mặc dù Thánh kinh được viết ra với mục đích chính là
mặc khải chân lý cứu rỗi của Thượng đế, qua thân vị của Chúa Cứu thế Giê xu,
nhưng khi đề cập đến những khái niệm có tính cách khoa học có thể kiểm chứng
được, Kinh thánh cũng được viết lại một cách rất chi tiết, rõ ràng. Đoạn một
của Sáng thế ký bắt đầu bằng lời khẳng định: “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên
trời đất.” Chữ ‘dựng nên’ trong nguyên bản tiếng Hy bá lai là chữ ‘bara’, có
nghĩa là sáng tạo nên một thực thể hoàn toàn mới, chưa hề có từ trước. Chữ
‘trời đất’ khi viết liền nhau, ‘shamayim erets’, có nghĩa bao gồm cả vũ trụ.
Như vậy Kinh thánh khẳng định vũ trụ có một buổi ban đầu, do Thượng đế siêu
việt bên ngoài không gian và thời gian dựng nên. Điều này hoàn toàn phù hợp với
những khám phá trong ngành thiên văn của thế kỷ hai mươi. Mời La Minh Tâm trích
dẫn các dữ kiện chúng minh cho điều này nhé..
Từ nhiều dữ liệu thu thập được của vệ tinh nhân tạo COBE trong
không gian, đến hình ảnh các thiên hà xa xăm ghi nhận được nhờ những viễn vọng
kính tối tân nhất trên bề mặt khí quyển địa cầu như Hubble Space telescope, tất
cả đều chứng minh thế giới chúng ta đang sống có khởi nguyên, bắt đầu chỉ trong
khoảng vài tỉ năm gần đây. Thế giới chúng ta không phải chuyển biến từ một thế
giới khác, nhưng được hình thành từ hư không. Như vậy, khối năng lượng khồng lồ
tạo nên thế giới vĩ đại đến từ không ai khác hơn là Đức Chúa Trời toàn năng.
Chính Ngài đã sắp đặt những định luật vật lý để từ đó tạo nên vật chất bền
vững, thích hợp cho sự sống của muôn loài vạn vật trong đó có con người. Chỉ
cần các định luật vật lý xê dịch một chút, cả thế giới hoàn mỹ này sẽ không thể
tồn tại được cho đến ngày nay.
Câu thứ hai của Sáng thế ký đoạn một rất quan trọng cho những
câu còn lại của đoạn, vì là câu duy nhất nói lên vị trí của quan sát viên, dựa
vào đó các hoạt động kế tiếp được mô tả trong Kinh thánh: “Vả đất là vô hình và
trống không, sự mờ tối ở trên mặt vực; Thần của Đức Chúa Trời vận hành trên mặt
nước.” Câu này cho thấy quan sát viên đang ở bên trên mặt đại dương nhìn lên
bầu khí quyển của trái đất, diễn tả bối cảnh của mặt địa cầu lúc bấy giờ và
hoạt động siêu nhiên của Đức Thánh Linh trên bề mặt trái đất. Trước khi phép lạ
siêu nhiên xảy ra, khoa học nghiên cứu và kết luận rằng bề mặt trái đất hoàn
toàn mờ tối, không hề có ánh sáng xuyên tới bởi vì lớp khí quyển phần lớn là
ammoniac và methane dày đặc đang bao trùm địa cầu cũng như những hành tinh khác
trong thái dương hệ, làm cho sự sống không thể phát sinh hoặc duy trì. Chữ ‘vô hình’
(nguyên văn tiếng Hebrew là tohuw) và ‘trống không’ (nguyên văn là bohuw) của
Kinh thánh nói lên tình trạng hoang phế và trơ trọi của địa cầu, không thích
hợp cho sự sống. Tình trạng trống vắng và mờ tối vẫn còn tiếp diễn đến ngày nay
trên bề mặt của một số hành tinh khác, điển hình là Sao Mộc (tiếng Latin:
Jupiter). Nếu như không có sự biến đổi siêu nhiên trên bề mặt trái đất qua sự
làm việc của Đức Thánh Linh, địa cầu ngày nay cũng hoàn toàn trơ trọi như bao
hành tinh chưa có sự sống khác được khoa học tìm thấy.
Câu Kinh thánh kế tiếp mô tả quang cảnh ngày thứ nhất trên bề
mặt địa cầu nhé: “Đức Chúa Trời phán rằng: Phải có sự sáng, thì có sự sáng.”
Chữ ‘phải có’ trong nguyên văn Hebrew là ‘hayah’, khác với chữ ‘bara’ mà chúng
ta vừa nghe ở trước, không bao hàm ý nghĩa sáng tạo đặc biệt, nhưng ám chỉ một
diễn tiến đang xảy ra, hoặc một quá trình mới được hình thành. Câu này diễn tả
hình ảnh ánh sáng thấm xuyên qua lớp khí quyển, chạm đến mặt nước của bề mặt
địa cầu, là nơi quan sát viên của sách Sáng thế ký ghi nhận mọi diễn tiến. Mặt
trời, trăng sao có lẽ đã được hình thành từ lúc ban đầu nhưng chưa lộ dạng, bởi
vì ánh sáng chưa xuyên tới mặt đất cho đến khi có sự làm việc của Đức Thánh
Linh. Tuy nhiên trong ngày thứ nhất, trên bề mặt địa cầu chỉ mới xuất hiện ánh
sáng mờ, không đủ để nhận dạng các thiên thể là nguồn sáng trên bầu trời bên
ngoài lớp khí quyển. Mãi cho đến ngày thứ tư, khi bầu khí quyển trở nên trong
suốt hơn, các thiên thể này mới xuất hiện một cách rõ rệt trên bầu trời.
Qua ngày thứ hai, Thiên Chúa thiết lập lớp hơi nước trên bầu khí
quyển cách biệt với lớp nước của đại dương, tạo nên một chu kỳ tuần hoàn bền
vững cho nước bốc hơi, ngưng tụ rơi xuống thành mưa. Với kích thước đặc biệt
của trái đất, lượng hơi nước được giữ lại dưới bầu khí quyển để điều hòa nhiệt
độ, tạo nên độ ẩm cần thiết và chu kỳ mưa đều đặn, khoảng 5 inch một năm, cần
thiết cho sự phát triển của các loài thảo mộc dựng nên trong ngày kế tiếp. Đến
ngày thứ ba, mặt đất được phân rẽ khỏi mặt nước; biển, sông ngòi, và đại dương
được hình thành. Các loài thực vật cũng được dựng nên và sinh sôi nảy nở trên
mặt đất nhờ có ánh sáng trong mờ từ ngày thứ nhất và hơi nước trong ngày thứ
hai. Những chữ ‘cây cỏ, hột giống, cây trái’ trong nguyên văn, ‘zera, ets,
periy’, là những danh từ chung tổng quát, có thể ám chỉ những loài thực vật đơn
giản có từ buổi sơ khai khi sự sống trên địa cầu mới phát sinh. Sự sống đơn
giản nhất bắt đầu trong lòng đại dương, sau khi Đức Thánh Linh vận hành trên
mặt nước.
Vào ngày thứ tư, bầu khí quyển trở nên trong sáng hơn nhờ có sự
hô hấp thán khí (carbonic) của các loài thực vật trong ngày thứ ba. Sự chuyển
biến của bầu khí quyển (atmospheric transformation) từ trong mờ (translucent)
đến trong suốt (transparent) khiến cho mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao được
hiện ra rõ ràng. Trong câu 16, “Đức Chúa Trời làm nên hai vì sáng lớn”, chữ
‘làm’ được viết trong thể quá khứ, nguyên văn Hebrew là ‘asah’, có nghĩa ‘đã
khuôn đúc nên’. Như vậy mặt trời, mặt trăng, và các hành tinh của thái dương hệ
có lẽ đã được dựng nên một cách đặc biệt trong những ngày trước đó, nay chỉ
xuất hiện rõ ràng trên bầu trời để đem lại sự sống phong phú hơn cho những động
vật khác được tạo dựng sau này trong ngày thứ năm và thứ sáu. Đó là những sinh
vật với cấu trúc phức tạp, cần có dưỡng khí (oxigen) và ánh sáng mặt trời để hô
hấp và bài tiết theo chu kỳ tuần hoàn. Đồng thời với dưỡng khí, một lớp ozone
(O3) cũng được hình thành ngoài thượng tầng khí quyển, ngăn chăn những tia sáng
tử ngoại có hại cho sự sống của những sinh vật sống cao cấp về sau.
Ngày thứ năm, Thiên Chúa dựng nên (‘barah’) các loài cá lớn dưới
nước, chim trên trời, và ngày thứ sáu các loài vật được dựng nên (‘barah’).
Những chữ ‘súc vật, côn trùng, thú rừng’ trong nguyên văn Hebrew là những chữ
‘chayyah, behemah, remes’, ám chỉ những sinh vật tứ chi có cấu trúc phức tạp,
là những động vật có lý trí, tình cảm và ý chí. Di tích hóa thạch còn lại cho
thấy những động vật cao cấp này xuất hiện sau khi loài cá và chim xuất hiện.
Những giống cá, chim, và súc vật được sáng tạo ra một cách đặc biệt trong hai
ngày thứ năm và sáu là những loài vật có hồn (nephesh, soulish creatures), có
thể liên hệ được với con người. Cuối cùng trong ngày thứ sáu Thiên Chúa dựng
nên (barah) con người theo ảnh tượng Ngài. Chỉ có con người mới có linh tánh
của Thiên Chúa và có thể thông công được với Ngài. Chỉ có con người mới có khả
năng quản trị và bắt phục muôn vật theo sự khôn ngoan mà Thiên Chúa ban cho
(câu 26-31 sách Sáng thế ký). Như vậy con người là tạo vật cuối cùng và đặc
biệt nhất trong công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa.
Những chữ ‘ngày’ từ thứ nhất đến thứ sáu trong nguyên văn Hebrew
là chữ ‘yowm’, có thể dịch là một giai đoạn, không nhất thiết phải liên hệ đến
quỹ đạo và thời gian của thái dương hệ. Chữ ngày (‘bocer’) và đêm (‘ereb’)
trong mỗi giai đoạn nói đến điểm khởi đầu và kết thúc của giai đoạn đó. Sáu
ngày của Đức Chúa Trời dựng nên muôn loài vạn vật nói lên sáu giai đoạn khác
nhau của công cuộc sáng tạo. Đó là giai đoạn các sinh vật sống với cấu trúc
hoàn toàn mới mẻ và khác nhau được tạo thành, sinh sôi, và phát triển. Mỗi giai
đoạn này có lẽ kéo dài hàng triệu năm, theo như di tích hóa thạch cho biết. Qua
ngày thứ bảy, là ngày nghỉ của Thiên Chúa, không còn loài nào mới được tạo dựng
nên sau con người. Điều này cũng phù hợp với di tích hóa thạch cho thấy trong
suốt giai đoạn hóa thạch từ sơ khai đến phức tạp, nhiều loài mới liên tục được
tạo ra, đồng thời có những loài bị tuyệt chủng. Tuy nhiên trong lịch sử của
loài người, tốc độ tuyệt chủng của các loài gia tăng, nhưng hầu như không có
loài mới nào xuất hiện. Thánh kinh không đề cập đến ngày và đêm trong ngày thứ
bảy, để ám chỉ rằng ngày này không còn tiếp diễn sự sáng tạo. Điều đó cho thấy
Thiên Chúa đã ngưng hoạt động sáng tạo đặc biệt của Ngài sau khi dựng nên loài
người, phải chăng để bảo tồn sự phát triển của xã hội loài người? là sinh vật
sống với trình độ trí tuệ cao hơn hết trong các loài sống và là loài duy nhất
có khả năng tâm linh, có thể giao thông được với Thượng đế?.
Nói về quan niệm thời gian trên Trái đất và thời gian trên vũ
trụ, chợt nhớ đến câu chuyện cổ tích “Từ Thức lấy vợ tiên”. Câu chuyện tóm tắt
đoạn cuối như sau, khi Từ Thức từ nơi gọi là tiên giới sau 1 năm sống cùng
người vợ tiên trở về hạ giới thì đã trải qua 200 năm rồi. Và quan niệm thời
gian nơi hạ giới tức Trái Đất trong rất nhiều câu chuyện khác luôn ngắn hơn rất
nhiều trên thượng giới, vũ trụ hay gọi nôm na là “trên trời”. Ta thấy quan niệm
này rất rõ ràng trong các nền văn học, triết lý phương Đông. Có thể phần nào
trả lời cho sự thắc mắc: “Ngày thứ nhất, ngày thứ 2… đến ngày thứ sáu” trong sự
sáng tạo của Chúa, mỗi ngày trong sự sáng tạo đó tức là gọi cho một giai đoạn
rất dài.
Trở lại với thuyết tiến hóa của Darwin ra đời vào cuối thế kỷ 19
cho rằng loài người và các loài sống phức tạp, được sinh ta từ các hợp chất vô
cơ đơn giản qua quá trình tiến hóa trong mấy tỉ năm. Tuy nhiên sau hơn một thế
kỷ tìm hiểu cơ chế hoạt động của tế bào sống, tất cả các nhà nghiên cứu đều
đồng ý rằng sự sống của những tế bào bé nhỏ nhất cũng vô cùng phức tạp và tràn
đầy bí ẩn. Những khám phá trong ngành sinh vật học và di truyền học trong những
thập niên cuối của thế kỷ hai mươi cho biết sự khác biệt vô cùng to lớn giữa tế
bào sống đơn giản nhất và những hợp chất vô cơ có mặt trong thời kỳ sơ khai của
trái đất. Theo nhà sinh vật học Harold Morowitz, trong điều kiện thuận lợi
nhất, xác suất để những hợp chất vô cơ kết tụ thành đơn bào được ước tính là
1/10,100,000,000,000. Tức là theo Harol Morowitz, trong 10,100 tỷ lần kết hợp
chỉ có 1 lần hợp chất vô cơ mới tạo ra đơn bào. Nếu đem so sánh thời gian chỉ
vài tỉ năm của vũ trụ với thời gian cần có để các hợp chất hữu cơ tình cờ kết
hợp tạo nên sự sống đầu tiên trên mặt đất, thì tuổi của vũ trụ không thấm vào
đâu so với thời gian cần thiết để hình thành sinh vật sống. Điều lạ lùng hơn
nữa là theo ước tính của các nhà khoa học, chỉ trong vòng nửa tỉ năm sau khi
trái đất hình thành, sự sống đã xuất hiện trong lòng đại dương với cấu trúc tế
bào hoàn chỉnh. Như đã đề cập ở phần trên, nếu như không có sự vận hành của Đức
Thánh Linh, với điều kiện ban đầu của trái đất – trơ trọi và tối tăm – những
nhân tố căn bản của sự sống như ADN và ARN không thể hình thành và tồn tại
được. Như vậy Kinh thánh Sáng thế ký đoạn một hoàn toàn phù hợp với nền khoa
học hiện đại hay chƯA?
Và điều vượt ngoài sự hiểu biết của khoa học là tính cách đặc
biệt trong thành phần cấu tạo và thứ tự hình thành của muôn loài. Đức Chúa Trời
là Đấng dựng nên các thiên hà, ngân hà, và thái dương hệ, đã sắp đặt một cách
tinh vi mọi chi tiết cần thiết để tạo ra một môi trường thuận lợi trên mặt đất
hầu duy trì sự sống mà Ngài đã thiết lập một cách siêu nhiên từ ban đầu. Sự
quan tâm của Đấng sáng tạo đối với vật thọ tạo – cỏ cây, chim, cá, côn trùng,
súc vật, và loài người – được thể hiện qua sự kết hợp hài hòa của thiên nhiên
và sự sống phong phú, lành mạnh của vạn vật.
Mỗi giai đoạn trong công cuộc sáng tạo là một sự chuẩn bị quan
trọng cho sự ra đời của một loài mới phức tạp tinh vi hơn. Loài người là loài
cuối cùng được tạo dựng một cách siêu nhiên, cũng là tột đỉnh của công cuộc
sáng tạo của Đức Chúa Trời. Trong các loài sinh vật được dựng nên chỉ có con
người mới có phần tâm linh ngoài phần tâm hồn và thể xác. Nhờ vậy người
đầu tiên (Adam) mới có thể thông công trực tiếp với Thiên Chúa là Đấng Thần
Linh. Đáng tiếc thay con người sau đó đã sa ngã, sống theo ý riêng, xa rời
Thượng đế, đánh mất đi khả năng thiêng liêng và sự giao thông với Thượng đế.
Tuy nhiên vì tình thương Thiên Chúa đã sắm sẵn ơn cứu rỗi cho loài người qua sự
chết đền tội của Ngôi Hai Thiên Chúa, hầu khôi phục lại địa vị, giá trị, và
chức năng của con người mà Ngài đã đặt để từ buổi ban đầu. Điều duy nhất con
người có thể làm để đền đáp ơn yêu thương của Thiên Chúa là chấp nhận chương
trình cứu chuộc của Ngài và phục hòa với Thượng đế là nguồn cội và căn nguyên
sự sống phong phú của con người.
Có thể thấy rằng, khoa học đang ngày càng chứng minh từng chút
một công cuộc sáng tạo của Đức Chúa Trời trong việc hình thành vũ trụ và sự
sống trên Trái Đất này. Kinh thánh quả là chất chứa bao lời khôn ngoan và ẩn
dấu nhiều sự thật chưa được chúng ta khám phá hết cũng như khoa học vẫn đang
tiếp tục tìm tòi khám phá từng bước công trình vĩ đại đó của Đức Chúa Trời.
Ngài là Đấng siêu nhiên, con người chúng ta vẫn chưa hiểu hết về Ngài, cũng như
khoa học chưa hiểu hết công trình sáng tạo đó.
Người Việt Nam ta ngày xưa từng quan niệm rằng trời tròn đất
vuông, qua câu chuyện cổ tích dân gian “Bánh Chưng, Bánh Dày” vào thời vua Hùng
thứ sáu (khoảng năm 1712-1632 TCN theo sách “Thế thứ các triều vua Việt Nam”
tác giả Nguyễn Khắc Thuần) mà ai cũng có thể đã từng đọc hay nghe qua. Nhưng
trong sách Gióp được viết ra cách đây 500 đến 1500 năm TCN, viết rằng: “Chúa
trải bắc cực ra trên vùng trống, treo trái đất trong khoảng không không”. Và
với sự tiến bộ của khoa học vũ trụ, chúng ta biết sự thật rõ ràng Trái Đất
chúng ta đang sống là một khối cầu lơ lửng trong không gian vũ trụ.
Kinh thánh, một quyển sách ghi lời Đức Chúa Trời thật mang bao
điều huyền nhiệm. Khoa học ngày nay ngày càng tiến bộ, những khám phá thế giới
đang dần dần ứng nghiệm những gì trong Kinh thánh đã bày tỏ, dù những lời ấy đã
được ghi chép lại từ rất lâu. Cựu ước được viết trong khoảng năm 1500 – 500
TCN, Tân ước được viết ra khoảng từ năm 40-100 SCN.
Cám ơn bạn đã đọc bài của trang web Tin Lành Hà Nội! Hẹn gặp lại bạn đọc vào bài chia sẻ tiếp theo.
MT: CHRISTIANBACK NGUYENNGOCBACH
HT: TIN LÀNH HÀ NỘI SHALOM
MT: CHRISTIANBACK NGUYENNGOCBACH
HT: TIN LÀNH HÀ NỘI SHALOM
0 comments:
Đăng nhận xét