Gần Đất Xa Trời Hoặc Gần Trời Xa Đất
Tác giả: Phùng Văn Chiêu
Tác giả: Phùng Văn Chiêu
Những gì tự thuật lại trong những trang nầy không ngoài mục đích
để cho đọc giả, họ hàng, bằng hữu, người thân quen của tôi, sẽ giải tỏa hết
thắc mắc trong lòng sao có người đến tuổi 79, đến lúc “gần đất xa trời” nầy lại
thay đổi niềm tin.
Chúa là tốt lành |
Sự lựa chọn từ đạo Phật, Công giáo rồi sang qua Tin Lành khiến tôi đã bị giằng co và âm thầm mang một gánh nặng trong lòng từ nhiều năm qua. Không bị
khuyến dụ, hay nghe theo ý kiến của ai cả, mà do đức tin từ đáy lòng của tôi.
Kể cả các con cháu của tôi, những người đã theo đạo Tin Lành nhiều năm trước,
chưa một người nào nói với tôi một lời về Chúa. Ngược lại tôi rất tôn trọng về
sự lựa chọn và đức tin của các con, nên không có một lời chỉ trích hay ngăn cản
khi các con theo Tin Lành. Tôi chỉ có một yêu cầu là dù theo đạo nào cũng giữ
đạo làm người được tốt là tôi mừng rồi. Do đó việc tôi tin nhận Chúa Jesus
Christ tại thánh đường Hội Thánh Orange ngày 1.1.2006 trong buổi lễ thờ phượng
Chúa đã làm cho con tôi rất ngạc nhiên, vui mừng và cảm động đến rơi lệ.
Tôi được sanh trong một gia đình Phật giáo, bảo thủ, lấy chữ hiếu làm
đầu, luôn noi theo di huấn của tổ tiên là bảo tồn gia tộc. Từ khi 10 tuổi đến
lớn khôn, cha mẹ luôn nhắc tôi phải thờ phượng ông bà, bảo quản nhà từ đường và
đất hương quả để có nơi thờ phượng tổ tiên. Vả lại tôi là con trai trưởng, ví
như là trưởng tộc, nên mọi người đặt hết hy vọng vào tôi để tôi lèo lái thế nào
cho mọi người trong gia tộc phải đoàn kết. Vì lý do đó mà cho đến sau nầy, tôi
luôn bảo tồn và noi theo di huấn của tổ tiên. Thời gian sau ngày 30.04.1975 dù
gặp rất nhiều khó khăn, bằng mọi giá chúng tôi vẫn làm theo lời dạy bảo của cha
mẹ. Hằng năm khi đến các ngày giỗ, họ hàng trong gia tộc đến tề tựu đông đủ
trong tình thân gia đình. Tôi được yên tâm, vui lòng vì đã hoàn thành được nhiệm
vụ của mình.
Giữa năm 1967 vợ tôi là một hiền thê rất yêu quí bất ngờ bị tai nạn hàng
không trong một chuyến du lịch tại Hongkong trên đường trở về nước. Từ đó tôi
bắt đầu cảm nhận sự vô thường của cuộc đời. Cuộc đời quân ngũ của tôi tuy bận
rộn (Không Đoàn Trưởng căn cứ Không Quân Biên Hòa) nhưng cũng không làm vơi đi
nỗi đơn chiếc. Tôi cũng muốn có người tiếp chăm lo các con nên đến năm 1970 tôi
tái giá, cưới người vợ thứ nhì đạo Công Giáo. Để cho gia đình bên vợ được vui,
tôi chịu làm phép cưới tại thánh đường trong căn cứ Không quân Biên hòa. Tuy
nhiên chữ hiếu tôi rất nặng nên tôi chỉ làm lễ cưới theo lễ nghi Công Giáo
thôi, còn chúng tôi đã thỏa thuận là sau đó đạo của ai nấy giữ. Sau nầy con
chúng tôi được sinh ra, tôi đều chấp thuận cho các con tôi theo đạo mẹ.
Thời gian lưu vong tại Pháp, chúng tôi sống ở gần bên gia đình vợ và gia
đình bên vợ là Công giáo nên thường hòa mình và hiện diện trong các lễ nghi
theo nghi thức Công giáo. Trong thời đó có cha Thiện là bạn thân của gia đình
bên vợ, thường tới lui với gia đình và nghĩ tôi là tín đồ Công giáo nên có đề
nghị tòa thánh cấp cho tôi một tờ giấy khen tôi là một con chiên tốt và đặt tên
thánh tôi là Antoine.
Sau đó vợ chồng tôi chia tay, tôi một mình nuôi bốn con còn nhỏ và thêm
sáu con chó nhỏ của các con tôi. Một mình vừa lo cơm nước, đưa đón con đi học,
giặt giũ, cùng đủ chuyện trong nhà và đi làm việc để sinh sống. Trong bốn năm
trời vất vả, mệt mỏi, bệnh không dám nghỉ việc. Mỗi đêm về đến thì đã khuya,
trong nhà con cái đều an giấc. Không đêm nào tôi có mặt ở nhà trước 12 giờ
khuya cả. Đêm nào như đêm nấy, về đến nhà thấy con thơ không mẹ nằm ngủ ngổn
ngang, nhìn vẻ mặt con ngây ngô, hồn nhiên khiến tôi thật đau lòng, tôi không
tài nào nhắm mắt ngủ được, nên mở TV xem cho đến mòn mỏi, ngồi ngủ luôn trên
sofa cho đến sáng.
Thật là một thời gian quá gian nan, vất vã. Tôi nghĩ đời tôi đã mất hết
mọi điều, xa quê hương lạc loài, gia đình tan rã, nỗi đau và khổ nhọc chồng
chất, nhiều lúc tôi nghĩ đã đến đường cùng rồi, nhưng nhớ đến các con còn nhỏ
dại, tôi ráng tiếp tục để lo bổn phận. Có một đêm sau khi nghỉ việc nhà hàng
lúc đó khoảng 12:30 khuya, trên đường về nhà đi
qua một nhà thờ tôi thấy đèn còn sáng vì lễ nửa đêm chưa chấm dứt. Tôi vào để
thử cầu xin Chúa có ban phước gì cho mình không? Khi đó tôi như người đang chới
với sắp bị chìm ở giữa dòng sông, nên gặp phao hay vật gì cứ chụp lấy cho khỏi
bị chết chìm. Mệt quá, tôi tìm ghế ngồi nghỉ trước rồi tính sau. Nhưng người
đông quá không còn chỗ nào cho tôi, nên tôi đành đứng tựa vào gốc cột gần cửa
chánh, chắp tay cầu nguyện xin Chúa cứu giúp. Cầu nguyện xong nhìn lên tôi thấy
tượng một ông Thánh, khi nhìn kỹ lại thấy tên của ông cũng là Antoine, như Cha
Thiện đặt cho tôi. Tôi suy nghĩ sao mà có sự trùng hợp như vậy rồi sau đó lần
lần tôi quên mất, không nhớ đến tờ ban khen mà tôi có tên là Antoine. Mãi đến
năm 2004 khi dọn nhà, lục lại hồ sơ cá nhân tôi mới tìm lại được.
Thời gian sau, mỗi khi trên đường về nhà thấy nhà thờ còn đèn sáng là tôi
vào tựa dưới chân thánh Antoine mà cầu nguyện với Chúa. Thú thật tôi không cảm
nhận Chúa có đáp lời tôi không? Nhưng tôi nghĩ Thượng Đế chắc không để cho tôi
đến bước đường cùng đâu và tự nghĩ mình phải cam tâm để đối diện với mặt trận
đời khó khăn nầy, còn khó hơn bội phần mặt trận Mậu Thân 1968 mà tôi đã gặp
phải.
Rồi ngày qua ngày tôi lấy lại được thăng bằng cuộc sống, con cái tôi càng
lớn khôn, tôi tìm được hạnh phúc mà tôi không bao giờ muốn mất đi, đó là tình
phụ tử. Tôi cũng muốn dành hạnh phúc trọn vẹn đó cho con cái tôi. Và các con từ
đứa con lớn đến đứa nhỏ, đều ngày càng tỏ ra hiếu kính, yêu thương tôi nhiều.
Từ đó, tôi chỉ nghĩ đến các con thôi, nên tôi tự nguyện sống độc thân để tình
yêu thương cha con không bị chi phối. Vì lẽ đó mà từ 26 năm qua dù có đứng
trước mọi cám dỗ về tình cảm, dù có cơn sóng gió nào tôi cũng cố vượt qua được.
Những khi rảnh rỗi tôi tìm thú vui lành mạnh cho thể xác và tinh thần: đó là
thể thao và văn nghệ.
Thời gian từ 1990 đến sau nầy, nhiều biến cố xảy ra cho sức khỏe tôi: khi
từ phi trường Los Angeles về nhà con trai tôi là cháu Phụng, tôi bị tai nạn xe
làm cho xương bánh chè phải của tôi bị nứt làm đôi và nhiều vết thương khác từ
đầu đến chân. Tôi được đưa vào cứu cấp và điều trị tại bệnh viện USC Los
Angeles. Sáng hôm sau, khi còn đang nửa tỉnh nửa mê, tôi mơ màng nhìn thấy
tượng Chúa trên vách tường, cứ nghĩ là tượng Phật nên tôi cứ cầu xin Phật cứu
độ. Khi thật tỉnh lại mới thấy đó là Chúa trên thánh giá, đôi mắt nhân từ nhìn
tôi, tôi chỉ vừa kịp xin lỗi Chúa thì lại bị thiếp ngủ nữa lúc nào không
biết.
Đến trưa tỉnh lại, mở mắt ra tôi lại thấy một mục sư Mỹ nhìn tôi cười và
ông nói để ông cầu nguyện cho tôi. Phản ứng đầu tiên là tôi trả lời: “Thưa Mục
sư, tôi đạo Phật.” Nhưng ông vẫn tươi cười và nắm tay tôi, xin Chúa cứu rỗi
tôi, ban phước lành cho tôi. Tôi cảm động nhắm mắt theo dõi lời cầu nguyện của
ông. Những ngày nằm bệnh viện sau đó ông có trở lại thăm hỏi.
Có lẽ tôi có duyên phần với Chúa nên khi đó tôi quên mình là đạo Phật,
mỗi ngày sáng như tối tôi đều có cầu nguyện xin Chúa phù hộ và ban phước lành
cho tôi mau vượt qua cơn bệnh của tôi. Tôi có ý nghĩ Chúa hay Phật cũng không
sao cả. Đấng nào cũng tốt cả, lúc đó tôi chỉ cầu sao cho mau lành bệnh là tốt
rồi. Mười lăm ngày sau khi mọi thủ tục kiểm soát y khoa hoàn tất, các bác sĩ quyết
định giải phẫu để kẹp sắt lại chỗ xương bị nứt. Khi tôi nằm trên băng-ca để
được đưa đến phòng giải phẫu, bất thần tôi bị nghẹt thở, không la lên được. Sau
đó bác sĩ khám phá thấy tôi bị đau tim, triệu chứng nầy tôi chưa hề bị từ
trước, vì tôi còn rất khỏe, mặc dù đã 62 tuổi mà mỗi ngày tôi đánh tennis (đánh
đơn) đến hai tiếng đồng hồ không hề biết mệt.
Trong thời gian chờ đợi ổn định bệnh tim, tôi suy nghĩ rất nhiều, tôi
nghĩ rằng Thượng Đế thấy tôi không nên giải phẫu vì có thể sẽ nguy hiểm đến
tính mạng nên khiến cho có triệu chứng tim để ngăn cản lại. Tôi tin đó là quyết
định của Thượng Đế nên tôi xin các bác sĩ xương không giải phẫu nữa. Tôi nghĩ
là tôi tin Chúa từ đó nên sau khi xuất viện tôi có mua tượng Chúa đem về thờ.
Trên bàn thờ Phật có từ trước được ngăn đôi, một bên là Phật, một bên là Chúa.
Từ đó đêm nào tôi cũng cầu nguyện hai Ngài phò hộ cho tôi và gia đình. Ai thấy
tôi thờ như vậy đều phê bình: “sao mà thờ kỳ vậy”, tôi trả lời được hai Đấng
giáo chủ phù hộ, mình vững tâm hơn. Những lần sau, khi vào cứu cấp hay điều trị
tại bệnh viện, tôi đều nhớ cầu nguyện Đức Phật và Đức Chúa độ mạng. Kể cả năm
lần được thông tim, mỗi lần đều được tai qua nạn khỏi, cũng lạ là tôi không
biết sợ hay lo nữa.
Vào đầu năm 2000 tôi phải trở vào bệnh viện, lần nầy phải chịu giải phẫu
tim, là đại giải phẫu kéo dài đến sáu, bảy tiếng đồng hồ, làm bypass cho năm
mạch tim bị nghẽn. Mặc dù bác sĩ an ủi tôi rằng tỷ lệ nguy hiểm đến tính mạng
chỉ có 10%, nhưng tôi cứ miên man với con số 10% đó, vì biết đâu mạng mình kỳ
nầy nằm trong con số 10% nầy. Do đó tôi đã chuẩn bị tư tưởng là tôi đã tuổi 72
rồi nên Thượng Đế có gọi thì cũng không sao. Nói vậy chớ tôi vẫn lo vì không có
tôi thì gia đình sẽ ra sao và lại còn mấy con chưa thành gia thất, cuộc đời còn
đang bấp bênh tội nghiệp. Ngoài ra nhiệm vụ đối với gia tộc còn nặng trên vai
chưa hoàn tất, còn cả gia tộc 200 người đang hướng về tôi, cũng như nhiều bằng
hữu đã từng sống chết với tôi, xa họ tôi không đành. Tôi chỉ có thân già, không
có gì để lại cho họ, cho đời, nên khi còn 1 tuần nữa là đến ngày giải phẫu tôi
thực hiện được một CD (1.000 bổn) với tiếng hát của tôi để lại cho họ một chút
kỷ niệm thâm tình.
Một ngày trước khi giải phẫu tại bệnh viện UCI, tôi không sao nằm yên một
chỗ được, vì quá lo âu. Tôi đi từ từng lầu nầy đến từng kia để quên đi nỗi lo
âu. Khi tôi đi qua phòng hội thấy có rất đông bệnh nhân tập họp nghe mục sư
giảng đạo thì có một người Mỹ đi ra mời tôi vào. Khi mục sư giảng xong, ông đến
hỏi thăm tôi và ông nắm tay tôi rồi cầu nguyện xin Chúa ban phước lành cho tôi.
Dứt lời, ông nói tôi yên tâm đi vì có Chúa, Ngài sẽ phò hộ cho. Sáu giờ sáng
hôm sau, khi tôi nửa tỉnh nửa mê, tôi nghe văng vẳng có tiếng cầu nguyện xin
Đức Chúa Trời phò hộ cho tôi, . Khi mở mắt ra tôi thấy đó là một trong hai cô y
tá đang lau chùi các vết máu khô trên ngực tôi. Mặc dù đang bị đau và rất mệt
nhưng tôi hết sức cảm động và cố gắng nói lời cám ơn cô y tá ấy. Từ những ngày
đó niềm tin của tôi trong Chúa ngày càng nhiều, vì tôi biết là từ bao năm qua
Chúa lúc nào cũng ở bên cạnh và phò hộ tôi. Lúc nầy lòng tôi lại mang nặng một
sự đắn đo, tâm hồn tôi như bị dằng co giữa Đức Chúa và chữ hiếu. Một bên là
Đấng Tạo Hóa, là Đấng cứu mạng, bên kia là chữ hiếu, trách nhiệm đối với gia
tộc, khiến tôi rất khó xử. Tôi là người nhiều tình cảm và nặng nợ với gia tộc,
nếu tôi tiếp nhận Chúa thì có thể làm cho người thân trong gia tộc, nhất là
vong linh của cha mẹ tôi buồn lắm; một mặt tôi như cảm nhận được tình yêu của
Chúa và tôi thấy thật có lỗi với Ngài, nên mỗi lần cầu nguyện tôi đều xin Chúa
tha thứ.
Cho đến buổi chiều ngày 27/8/2005 khi con trai tôi bị té xỉu được đưa vào
bệnh viện Arcadia, tôi chạy vào đến giường cứu cấp thì con tôi đã qua đời. Chưa
bao giờ đời tôi bị nỗi đau xé ruột như thế: “Cha như chiếc lá vàng còn ngắc
ngoải trên cây, sao lá xanh thì lại rụng rơi lìa cành.” Vì quá đau lòng, tôi
trách thầm Chúa “Ngài đã cho con thoát bao lần giải phẫu hiểm nghèo, sao bây
giờ Ngài không cứu được con trai của con.”
Giữa lúc tang tóc, tâm tư tan nát, tôi chợt nhận ra có một vị mục sư
người Mỹ đã có mặt tự bao giờ. Ông vỗ về, an ủi từng người và cùng chúng tôi
dâng lời cầu nguyện. Cho đến gần nửa đêm, khi mọi người rời bệnh viện ông mới
chịu ra về. Trong ngày tang chế bận rộn tôi quên xin địa chỉ của mục sư để gởi
thư cám ơn. Do đó khi con gái tôi là cháu Hà và cháu nội tôi đề nghị làm lễ an
táng theo Tin Lành cho anh và cha chúng nó, tôi sực nhớ đến vị mục sư ấy nên
tôi chấp thuận ngay không nghĩ ngợi gì cả vì hình ảnh và sự nhiệt tình của vị
mục sư như nhắc nhở tôi là Chúa đã đến với gia đình chúng tôi. Ngày lễ tiễn đưa
con tôi đến nơi an nghỉ cuối cùng được Mục sư Nguyễn Thỉ và Mục sư Trần Thiện
Đức đến làm chủ lễ, cùng rất nhiều tín hữu của Hội thánh Orange đến tham
dự.
Sự ra đi của con tôi là một nỗi buồn lớn lao cho tôi và gia đình. Nhưng
nghĩ lại, đó cũng là ngọn đuốc soi đường đưa tôi đến gần Chúa thêm một bước
nữa. Trong tuần lễ sau đó tôi cứ suy nghĩ miên man về hình ảnh của Chúa Cứu
Thế, và ngày Chúa nhật đó là lần đầu tiên tôi đến Hội thánh, để thờ phượng
Chúa, để tỏ lòng biết ơn Chúa, để cám ơn quí vị mục sư và các tín hữu đã tham
dự tang lễ tiễn đưa con tôi.
Trong buổi thờ phượng, tôi như bị thu hút mạnh khi nghe Mục sư giảng về
những lời huyền diệu của Chúa. Đồng thời tôi được cảm kích về thâm tình khó tả
giữa các tín hữu, tất cả đều xem như anh em trong một đại gia đình dưới mái nhà
của Chúa là Hội thánh Orange. Kể từ sau Chúa nhật đó, tôi cứ mong mỏi những
ngày Chúa nhật tiếp theo mau đến để tôi được cùng cháu Hà đến thờ phượng Chúa
tại Hội thánh Orange.
Một tuần trước ngày Lễ Chúa Giáng Sinh (25/12/2005) tôi bị bệnh phải vào
bệnh viện USC để chữa trị. Cả tuần lễ cơn ho suyễn trở nên nặng thêm, đêm nào
khi nằm xuống thì đàm nhớt dâng lên thật nhiều làm tôi bị nghẹt không thở được,
tôi có cảm tưởng không còn sống được nữa, và hơn một tuần lễ tôi phải ngủ ngồi,
hơi thở rất nặng nề. Vậy mà ngày 25/12/2005 bác sĩ bảo tôi phải xuất viện. Tôi
quá lo lắng, sợ khi về nhà nếu bệnh có biến chứng, không có bác sĩ hay y tá tại
chỗ thì sẽ ra sao. Nghĩ đến đó tinh thần tôi xao động mạnh, bao thất vọng bao
trùm lên tôi. Tôi sực nhớ lại một tuần qua tôi quên cầu cứu với Đức Chúa, tôi
liền chấp tay cầu xin Chúa thương xót chữa lành. Một mặt tôi phân vân không
biết lần nầy Chúa có ban phước cho mình như mấy lần trước không? Khoảng 20 phút
sau, đang suy nghĩ viễn vong thì có bốn người bước vào. Tôi ngước lên thấy
Mỹ-Dung cùng ba cháu khác đi vào, khi ấy khoảng 4 giờ chiều. Chưa ai nói lời
nào, và phản ứng đầu tiên của tôi là hai giòng lệ tuôn trào vì quá cảm động.
Con gái Dung chỉ nói có một câu là “Các con đến thăm để cầu nguyện xin Chúa ban
phước lành cho Ba và để trao quà giáng sinh của ông bà Mục sư Thỉ gởi tặng cho
Ba.” Cháu Dung vừa dứt lời thì một bà y tá đến để đo huyết áp cho tôi. Tôi giới
thiệu các cháu cho bà y tá và khi biết được các cháu từ Hội thánh Tin Lành đến,
bà ta liền nói bà cũng là Christian, xong bà đặt tay lên vai tôi cầu nguyện,
xin Chúa bảo vệ tôi, tôi nhắm mắt nghe lời cầu nguyện của bà. Sau khi bà y tá
đo áp huyết xong, các cháu lại cầu nguyện cho tôi một lần nữa. Kể từ giờ đó
những căng thẳng trong lòng vơi đi rất nhiều, tôi như trút được nhiều lo âu tự
cõi lòng từ mấy ngày qua. Chiều hôm đó các cháu đưa tôi xuất viện rồi từ giả ra
về. Khi còn một mình, tôi nhớ lại trưa đó, chỉ một lúc sau khi cầu xin Chúa là
các cháu đến như là những thiên sứ của Chúa gởi đến với tôi, thận là một lần
nữa Chúa lại cứu tôi.
Tối hôm đó, sau khi lên giường ngủ thì đàm lại trào lên cổ họng, tôi bắt
đầu khó thở, sắp bị nghẹt như những đêm khi còn ở trong bệnh viện. Tôi sợ quá
lại cầu nguyện Chúa rằng : “Con xin Đức Chúa cứu con một lần nữa, nếu Ngài
thương và cứu được thì cho con được ngủ được yên giấc. Trái lại nếu Ngài thấy
đời con đến đến đây là đủ thì xin Ngài để cho con chết luôn trong đêm nay”.
Chúa thật nhiệm mầu vì tôi chưa chấm dứt lời cầu xin thì đã thiếp ngủ lúc nào
không hay biết. Đến sáng hôm sau thức dậy, mặc dù còn mệt mỏi vì gần một tuần
qua toàn là ngủ ngồi, tôi cảm thấy bệnh tôi gần như hết hẳn. Khi đó tôi xin lỗi
Chúa vì tính quá cố chấp của tôi, tôi nghĩ Chúa đã thương yêu, gìn giữ tôi qua
bao nhiêu khó nguy, tôi có niềm tin nơi Chúa mà sao tôi vẫn chưa chịu tiếp nhận
Ngài. Tôi cảm thấy mình thật là có lỗi do sự hờ hững của tôi đối với Chúa trong
16 năm qua.
Rồi đến ngày 1/1/2006 là buổi lễ thờ phượng đầu năm, tôi theo cháu Hà đến
dự thánh lễ, trước là âm thầm tạ ơn Chúa, sau đó cám ơn ông bà Mục sư Thỉ và
các em cháu tại Hội thánh Orange đã cầu nguyện và tặng quà cho tôi chiều ngày
Giáng Sinh trước đó. Sau bài giảng “Lời Cầu Nguyện Đầu Năm” nói về quyền năng của
Chúa, sự mong manh của đời người, lời dạy sống cách khôn ngoan. Như thường lệ,
sau bài giảng, Mục sư Thỉ hỏi có ai muốn tiếp nhận Chúa. Khi nghe hỏi lần thứ
hai, lòng tôi như bị xao động mạnh và như có Đấng vô hình nào đưa tôi đi ra.
Tôi quỳ xuống khấn nguyện xin Chúa tha tội lỗi, tiếp nhận Chúa Giê-xu là Cứu
Chúa của đời mình.
Hồi tưởng lại tôi nhớ là trong hơn 16 năm qua tôi tưởng là tôi đã tin
Chúa nhưng tôi chưa thật sự vâng phục Chúa mà còn bước đi trên nhiều ngã đường
khác nhau. Đời sống tôi nhiều ưu phiền, bất an vì Thiên Chúa chưa làm chủ cuộc
đời tôi Tôi chỉ tìm đến với Ngài những khi gặp khó khăn để trông chờ ơn phước
mà không biết rằng chính Chúa là Thượng Đế, là nguồn của sự sống, là nguồn ơn
phước. Ngài chính là Đức Chúa Trời đã xuống thế làm người, chịu chết nhục nhã,
đau thương để chết thế tội cho nhân loại và Ngài đã sống lại ban đời sống mới
cho kẻ tin nhận Ngài.
Bây giờ, ôn lại dĩ vãng, tôi thật không đủ lời tiếng để dâng lên Chúa lời
cảm tạ. Quá khứ tôi đã trãi qua những sự dư dật: sức khỏe, tình yêu, tiền tài,
danh vọng. Thời gian qua như luật đào thải đã lấy đi tất cả những gì tôi có
trên thế gian nầy. Tôi chỉ còn lại: tuổi già, sức yếu, đơn độc, cơ hàn.
**Từ khi tin nhận Chúa, tôi thấy mình có được tất cả: sức mới từ Chúa, tình
yêu của Chúa, có Hội Thánh là gia đình và hơn hết là Kinh Thánh, Lời Chúa, là
cả một kho tàng vô tận và quý giá. Tôi thật thấm thía câu Kinh Thánh I Phi-e-rơ
1:24-25:
“Mọi xác thịt ví như cỏ,
Mọi sự vinh hiển của nó ví như hoa cỏ,
Cỏ khô, hoa rụng,
Nhưng Lời Chúa còn lại đời đời. Và lời đó là đạo Tin Lành đã giảng ra cho
anh em.”
**Tin nhận Chúa, tôi thấy lòng thanh thản và vui mừng. Bây giờ tôi mới
hiểu được là dù đời sống có khó khăn, thử thách nhưng tôi luôn đuợc vui thỏa vì
tôi bước đi trong sự dẫn dắt của Cha Thiên Thượng và Ngài luôn hiện diện trong
đời sống tôi. Tôi cảm nhận được lời Chúa Giê-xu phán: “Ai tin Ta thì được sự
sống đời đời.” Một ngày nào đó không xa, tôi sẽ vĩnh viễn lìa xa cõi đời nầy để
về đến cõi vĩnh hằng, là nơi “không có sự chết, cũng không có than khóc, kêu ca
hay là đau đớn nữa”. Niềm tin mới và mãnh liệt nầy sẽ cho tôi sống những ngày
tháng còn lại tràn đầy lòng biết ơn Thiên Chúa, những ngày thật có ý nghĩ, yêu
đời và yêu người. Lời cuối tôi xin được đổi lại lời nói ban đầu là trong những
ngày “gần Trời, xa đất” nầy, tôi mong mỏi những người thân, bạn hữu, tất cả quý
vị hiện diện, và quý đọc giả cảm nhận được tình yêu, ơn cứu rỗi mà Cứu Chúa
Giê-xu dành sẵn cho mỗi người chúng ta.
Phùng văn Chiêu
Thứ Sáu, ngày 24 tháng 11 năm 2006
0 comments:
Đăng nhận xét